Nhân viên cũng cần được đào tạo về quản trị

Bên cạnh năng lực nghề nghiệp, năng lực quản trị cũng là yếu tố quan trọng cần được cải thiện cho mọi cấp độ nhân sự, từ lãnh đạo cho tới quản lý và đội ngũ công nhân viên.
Theo rà soát của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), năm 2020, tốc độ tăng năng suất lao động đạt 5,4%. Tính chung cả giai đoạn 2016 – 2020, năng suất lao động tăng trung bình khoảng 5,9%, cao hơn so với giai đoạn 2011 – 2015, tuy nhiên vẫn còn một khoảng cách xa để đuối kịp các nước trong khu vực.
Đây chính là điểm yếu của nền kinh tế Việt Nam cũng như của các doanh nghiệp trong bối cảnh thế giới đang thay đổi từng ngày. Nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ không còn là thế mạnh thu hút đầu tư, mà còn đẩy nền kinh tế rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Lý giải về tốc độ tăng năng suất chưa cao tại Việt Nam, các nghiên cứu được tiến hành trong nhiều năm chỉ ra rằng năng suất của người lao động chịu ảnh hưởng lớn bởi 2 cấu phần là năng lực nghề và năng lực quản trị.
Năng lực quản trị không chỉ dành cho người lao động ở cấp độ quản lý, lãnh đạo mà còn vô cùng quan trọng đối với cả những công nhân, nhân viên bình thường. Đối với nhân viên đây là khả năng tự quản lý công việc, sắp xếp thời gian, quy trình làm việc và tuân thủ kỷ luật làm việc.
Hiện nay, các doanh nghiệp đang rất chú trọng công tác đào tạo cho người lao động, tuy nhiên chỉ tập trung chủ yếu vào đào tạo năng lực nghề mà vô tình bỏ quên đi năng lực quản trị, đặc biệt là đối với công nhân, nhân viên.
Điều này chính là lý do tạo ra nghịch lý đào tạo nhiều mà năng suất không tăng cao. “Có thể hiểu năng suất bằng năng lực nghề nhân với năng lực quản trị. Một cái tăng mà cái còn lại giảm thì năng suất không thể tăng, mà một cái bằng không thì năng suất cũng bằng không”, ông Minh nhận định.
Ở cấp độ đơn giản chính là ý thức và kỷ luật của người lao động, hay còn gọi là “tác phong công nghiệp”. Đây cũng chính là điểm yếu của người lao động Việt Nam, đặc biệt là các bạn trẻ mới ra trường, bắt đầu tham gia vào thị trường lao động.
“Kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp của một bộ phận người lao động Việt Nam gần như bằng không, đôi khi chỉ là những quy định đơn giản như đi đúng giờ hay làm việc nhóm cũng rất hạn chế.
Ở cấp độ cao hơn, ý thức lao động còn thể hiện ở việc luôn luôn tìm phương pháp cải tiến, hoàn thiện quy trình làm việc. Điều này cũng cần xuất phát từ chính tâm thế của mỗi người nhân viên chứ không chỉ là sự đốc thúc, động viên từ bậc quản lý và lãnh đạo.
Những yếu tố quản trị cá nhân, tác phong công nghiệp thường cần được doanh nghiệp đào tạo thường xuyên, đào tạo lại để người lao động nắm bắt được thái độ và ý thức cần có.
Văn hóa và chức năng quản trị trong doanh nghiệp cũng phần nào tác động đến ý thức của nhân viên. Cơ chế thích hợp, chính sách quản lý hiệu quả, phân minh sẽ giúp người lao động tạo ra thói quen và thái độ tốt.
“Thời gian đào tạo cho phần “kỹ” và phần “năng” tương ứng với tỷ lệ 20 – 80 là hợp lý, trong đó đào tạo phần “năng” cần có sự liên kết, phối hợp giữa “3 nhà”, bao gồm nhà trường, doanh nghiệp và xã hội”.
Đặc biệt, trong bối cảnh công nghệ khoa học phát triển mạnh mẽ, chi phối các hoạt động sản xuất, kinh doanh đến quản lý của doanh nghiệp, thì việc đào tạo năng lực quản trị cho nhân viên theo hướng chuyển đổi số là điều vô cùng cần thiết.
Gắn liền quá trình quản trị của nhân viên đối với bản thân, công việc với những phần mềm, ứng dụng hiện đại mang đến lợi ích đa chiều đối với cả doanh nghiệp và nhân viên.
Các tiến bộ khoa học kỹ thuật tối ưu hóa quy trình làm việc, tăng năng suất lao động cũng như tiết kiệm chi phí hoạt động. Quan trọng hơn hết là tạo nên sức mạnh cạnh tranh để doanh nghiệp vững bước trên thị trường.
Với nhân viên, các công cụ số sẽ phần nào thúc đẩy tính năng động, sáng tạo trong họ để tìm ra những giải pháp mang lại hiệu quả cao, tiết kiệm thời gian và công sức.